25/11/10

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÔI VÀ CÁ BỘT

Tinh trùng cá trê
c. Giai đoạn phôi nang (blastula)
Hinh: giai đoạn hấp thu protein bằng quá trình tiêu hoá nội bào ở ruột sau: 1.Sự thẩm bào, 2. Di chuyển, 3. Tích luỹ, 4. Tiêu hoá, 5. Tiêu hủy

I. Sự phát triển phôi   
                                                                        
1.  Tế bào sinh dục

a. Tinh trùng
Cấu tạo gồm các phần: đầu, cổ, trung thể và đuôi
Tinh trùng cá được phóng thích ra ngoài dưới dạng lõng gồm có tinh trùng và tinh dịch thường gọi là sẹ cá
Hầu hết các loài cá tinh trùng được phóng ra môi trường nước, vận động nhờ phần đuôi, tìm gặp và thụ tinh với trứng. Một số loài tinh trùng được đưa vào cơ thể con cái.

b. Trứng
Sự thành thục của trứng bao gồm sự thay đổi về cấu trúc của tế bào chất và sự di chuyển của nhân
Sụ thay đổi rõ nhất là quá trình tích lũy vật chất dinh dưỡng dưới dạng noãn hoàng
Tế bào chất sẽ bị đẩy về cực động vật hình thành nên vùng đĩa phôi (blastodisk)
Nhân di chuyển về cực động vật và màng nhân tan biến đi.

2.  Sự thụ tinh
Sự bắt cặp sinh sản ở cá: tiếp xúc giữa con đực và cái, hoặc con đực bơi ở bên trên hoặc cạnh con cái
Tinh trùng tìm gặp và chui vào trứng nhờ sự vận động của phần đuôi. Tiến trình từ lúc tinh trùng xâm nhập vào trứng đến khi nhân của tinh trùng kết hợp với nhân của trứng gọi là sự thụ tinh.
Ngay sau khi thụ tinh, tế bào chất của trứng phát sinh một dịch lõng và co lại đồng thời màng bao quanh trứng trương nước lên hình thành một xoang bao quanh trứng. Chức năng của xoang để bảo vệ trứng và tạo không gian cho trứng phát triển

Quá trình thụ tinh
Bắt đầu bằng sự thâm nhập của tinh trùng vào trứng (impregnation).
Loại trừ sự thâm nhập của các tinh trùng khác bằng sự biến đổi bên trong tế bào trứng
Kết hợp nhân của tinh trùng và nhân của tế bào trứng (fertilization) tạo thành thể hợp tử (zygote)
Bắt đầu quá trình phân chia (cleavage) từ 1 tb hợp tử thành phôi với rất nhiều tb
Các tb của phôi tập hợp và biệt hóa thành các tổ chức mô, cơ quan, hệ thống (từ hình dạng đến chức năng)

3. Các giai đoạn của quá trình phát triển phôi
a. Hợp tử (zygote)


Ngay sau khi thụ tinh, đĩa mầm (đĩa phôi) hình thành rõ và sau đó tiến hành phân cắt.

b. Giai đoạn phân cắt (cleavage)
Sự phân cắt lần 1 chia đĩa phôi thành 2 tb, sau đó phôi lần lượt phân cắt thành 4, 8, 16, 32 tb.

Số tế bào ngày càng gia tăng về số lượng nhưng kích thước giảm và khó nhận biết từng tb riêng biệt. Số lớp tế bào tăng từ 3 lên 7 (có thể hơn 10 lớp. Đĩa phôi che phủ khoảng 10% - 20% noãn hoàng. Có thể phân chia thành giai đoạn phôi nang cao và phôi nang thấp




d. Giai đoạn phôi vị (gastrula)



Tiếp tục gia tăng về số lượng các tb của phôi. Đĩa phôi phát triển và dần dần che phủ khối noãn hoàng. Tại thời điểm đầu phôi vị, đĩa phôi che phủ khoảng 30% noãn hoàng. Giai đoạn này xuất hiện: phôi thuẫn (embryonic shield), vòng phôi (germ ring). Đĩa phôi phát triển và che phủ hoàn toàn khối noãn hoàng. e. Giai đoạn phân đốt (segmentation) và hình thành cơ quan. Các đốt cơ xuất hiện khi đĩa phôi bao phủ từ 50-60% (50-60% epiboly) khối noãn hoàng. Phần sau của phôi xuất hiện mầm đuôi. 





Đĩa phôi bao phủ 80% (80% epiboly) noãn hoàng, số đốt cơ tăng lên, dây sống và tủy sống xuất hiện (gđ này còn được gọi là phôi thần kinh. Đĩa phôi hoàn toàn bao phủ khối noãn hoàng (100% epiboly). Mắt xuất hiện nhưng chưa có sắc tố. Não phân hóa thành: não trước, não giữa và não sau. Mầm vi lưng xuất hiện nhưng dính vào vi đuôi. Phần trước của dây sống phân hóa rõ ràng. Hầu và tim xuất hiện xuất hiện. Sau khi hình thành khối noãn hoàng, phôi tiếp tục phát triển nhanh các cơ quan và trông giống như hình dạng cá





Phôi cử động do đuôi tách ra khỏi noãn hoàng; vi, ống tiêu hóa, não giữa, cơ quan thụ cảm, dây sống và đốt cơ phân hóa ngày càng rõ ràng hơn. Sắc tố xuất hiện: mắt có sắc tố (xuất hiện điểm mắt theo  các nhà sản xuất giống). Trước khi nở, phôi có kích thước lớn hơn chu vi của khối noãn hoàng




f. Giai đoạn cá nở:



II.  Sinh lý dinh dưỡng
1.  Kích thước trứng, lượng noãn hoàng và sự chết đói
Kích cỡ của cá bột và thời gian tồn tại trước khi cá bị chết đói thì chịu ảnh hưởng lớn bởi kích thước trứng và nhiệt độ nước.
Mối liên hệ giữa kích thước cá bột và đường kính trứng theo Shirota (1970): L = 4 D
Cá bột từ trứng có kích thước lớn: có nhiều thời gian tìm kiếm thức ăn trước thời điểm chết đói (irreversible stavation)
Cá bột từ trứng có kích thước nhỏ chỉ tồn tại 1-2 ngày sau khi hết noãn hoàng, trái lại cá bột từ trứng có kích thước lớn có thể tồn tại 6-15 ngày trước khi chết đói.
Thời điểm chết đói còn phụ thuộc vào tập tính hoạt động của cá bột.
Trứng có kích thước lớn: cải thiện tỉ lệ sống của cá bột, nhưng bù lại sẽ làm giảm sức sinh sản và kéo dài thời gian dễ bị tổn thương bởi địch hại.
Thời điểm chết do đói của cá bột có thể được xác định từ thời điểm cá hấp thụ hết noãn hoàng. Nhưng thời điểm cá bắt đầu dinh dưỡng ngoài mới quyết định tỉ lệ sống và hầu hết các loài cá bột đều lấy thức ăn trước khi hấp thụ hết noãn hoàng.

2. Tập tính bơi lội
Trong giai đoạn còn noãn hoàng, cá bột bơi lội liên tục, mạnh mẽ.
Sau khi hết noãn hoàng, cá bột vận động “tiết kiệm” hơn và đây là một yếu tố quan trọng trong sinh thái dinh dưỡng, vì nó ảnh hưởng đến tần số bắt gặp mồi và sử dụng năng lượng có hiệu quả nhất cho quá trình biến thái.
Sự vận động của cá bột thì khác với sự vận động của cá trưởng thành do chưa hoàn chỉnh các cơ quan vận động.
Sự vận động cũng chịu tác động bởi nhiệt độ
Theo Blaxter (1969): tốc độ “tiết kiệm” là 2-3 lần chiều dài thân/giây và tốc độ “bùng phát” (có thể duy trì trong vài giây) là gấp 10 lần chiều dài thân/giây.

3. Tập tính dinh dưỡng
Phương thức nhận biết con mồi
Hầu hết cá bột nhận biết con mồi bằng mắt và chỉ bắt mồi vào ban ngày. (Sự thiếu các tế bào hình que và sự hình thành sắc tố võng mạc trong những tuần lễ đầu tiên).
Khi mới bắt đầu lấy thức ăn ngoài, cá bột chỉ nhận biết được những con mồi tương đối gần (cá trích 0,4-1,0 chiều dài thân L, cá bơn là 0,5L...).
Khoảng cách nhận biết con mồi gia tăng theo kích cỡ con mồi và cùng với sự lớn lên của cá bột.
Nhân tố kích thích cá bột bắt mồi chưa được nghiên cứu đầy đủ, nhưng kích cỡ con mồi, và phương thức vận động là những nhân tố quan trọng.
Hầu hết cá bột bắt mồi phụ thuộc vào sự vận động của con mồi nhưng chúng bắt được cả những con mồi bất động. Cho nên sự vận động không phải là nhân tố chủ yếu.

Sự chọn lựa thức ăn
Là một khía cạnh rất quan trọng trong ương nuôi các loài cá bột, vì hầu hết các loài cá bột chịu ảnh hưởng rất lớn đến nguồn thức ăn tự nhiên (live food). Cỡ và loại thức ăn thay đổi theo quá trình phát triển của cá bột và ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá bột
Chịu ảnh hưởng lớn bởi nhiều đặc điểm trên cả cá bột và con mồi: bao gồm cỡ miệng, sự thiếu hoàn chỉnh của ống tiêu hóa của cá bột; mức độ tương phản, cấu trúc, hoạt động và mật độ của con mồi.
Ảnh hưởng bởi đặc điểm của cá bột:

  • Cỡ miệng: cỡ miệng nhỏ nên hạn chế loại thức ăn tự nhiên. Theo Shirota (1970), cá bột chỉ bắt được mồi có kích thước bằng với cỡ miệng mở một góc 45o. Các nghiên cứu trên cá bơn cho thấy cá chỉ bắt được mồi có kích cỡ từ 60-100 micrometer, hoặc cỡ mồi bằng 36% cỡ miệng.
  • Sự phát triển chưa hoàn chỉnh của ống tiêu hoá: điều này dẫn đến sự phụ thuộc vào các loại thức ăn tươi sống có kích thước nhỏ trong giai đoạn đầu của cá bột. Theo Confer và ctv (1990), mồi có kích thước nhỏ sẽ có hiệu quả tiêu hoá cao hơn.
  • Sự phát triển chưa hoàn chỉnh của các cơ quan vận động: hạn chế loại mồi mà cá có khả năng ăn được
Ảnh hưởng của con mồi:

  • Kích cỡ mồi: khác nhau theo sự phát triển của cỡ miệng.
  • Sự khác biệt về hình dạng và phương thức vận động của con mồi sẽ kích thích sự chọn lựa thức ăn của cá bột
  • Tỉ lệ H:L cao sẽ kích thích cá bắt mồi hơn
  • Các loài chiếm ưu thế đôi khi cho mối tương quan âm (-) với sự chọn lựa thức ăn ở cá bột (sự lựa chọn mồi lạ).
III. Sự phát triển của ống tiêu hoá

1.  Hình thái
Ống tiêu hoá của cá bột rất đơn giản khi mới nở. Nó chỉ là một ống đơn giản, chưa có hậu môn và gan và tuỵ chưa phân biệt được.
Chưa có răng hầu và chưa có chồi vị giác, ruột ngắn chưa phân biệt được các phần và chưa có dạ dày.
Ống tiêu hoá không có sự biến đổi cho đến khi tiêu hoá hết noãn hoàng, lúc này ống tiêu hoá có thể phân ra thanh các phần: khoang miệng, ruột trước, ruột giữa và ruột sau.
Sau thời điểm bắt đầu lấy thức ăn ngoài, hàng loạt các biến đổi xảy ra. Ống tiêu hoá biệt hoá thành từng phần riêng biệt, các nếp gấp phát triển, gan và tuỵ hoạt động, ống tiêu hoá kéo dài ra bắt đầu cuộn lại.
Giai đoạn cuối của quá trình phát triển dạ dày được hoàn chỉnh bởi sự hình thành các tuyến dạ dày hay xuất hiện khoá môn vị. Cá bột kết thúc giai đoạn ấu trùng và chuyển sang giai đoạn juvernile.

2. Sinh lý
Ở giai đoạn đầu tiên của cá bột, sự tiêu hoá và hấp thụ thức ăn xảy ra ở ruột giữa và ruột sau. Do ruột ngắn, thức ăn di chuyển rất nhanh qua ruột trước, phần đầu của ruột giữa (chỉ vài phút) và dừng lại ở phần sau ruột giữa và ruột sau một thời gian dài.
Bằng chứng mô học của quá trình hấp thu thức ăn là sự xuất hiện của các không bào lipid ở ruột giữa theo sau qua trình thuỷ phân và tổng hợp nội bào. Theo Loewe và Eckmann (1988) quá trình này bao gồm:
Tiêu hoá ngoại bào: lipid được phân huỷ bởi men lipase
Khuếch tán của các acid béo qua thể đỉnh của màng tế bào biểu mô hấp thụ
Tổng hợp nội bào thành thể triglycerides để duy trì các thành phần được khuếch tán cho tổng hợp acid béo.
Các thể vùi ưa acid xuất hiện ở ruột sau là kết quả của quá trình hấp thu protein trong khoang ruột bằng quá trình thẩm bào.

Khả năng tiêu hoá của cá bột tại thời điểm bắt đầu lấy thức ăn ngoài là nhờ sự hiện diện của các men tiêu hoá: tripsin, chymotripsin, aminopeptidase, alkaline phosphatase và amylase.
Gan và lớp biểu mô được coi là nơi tạo ra men lipase.
Thể hạt men của tuyến tuỵ là nơi sản xuất trypsin và chymotrypsis Pepsin, sản phẩm tiết của tuyến dạ dày không hiện diện cho đến khi tuyến da dày xuất hiện và hoàn chỉnh chức năng. Hoạt động của các men tiêu hoá gia tăng trong suốt giai đoạn phát triển của cá bột.

IV. Thích ứng bảo vệ ở giai đoạn phôi và sau phôi
Các lối thích ứng bảo vệ này ở thủy sinh vật rất đa dạng, tất cả đều nhằm bảo vệ cho trứng và phôi khỏi bị hủy hoại, mất mát, mặt khác bảo đảm cho trứng và phôi những điều kiện môi trường tốt nhất để phát triển, trước hết là điều kiện nhiệt độ và oxy. Trứng của cá thường nhỏ, nhẹ dễ nổi lên các lớp nước bề mặt ẩm hơn và nhiều oxy hơn.Trong trường hợp trứng nặng thường được gắn vào các vật thể nổi. Nếu trứng đẻ ở đáy, thường ở các nơi nước chảy giàu oxy. Trứng còn được bảo vệ bằng cachs ngậm rong miệng như ở cá rô phi. Bảo đảm điều kiện nhiệt độ cao để trứng và phôi phát triển nhanh, rút ngắn giai đoạn phát triển phôi còn có ý nghĩa rút ngắn giai đoạn thủy sinh vật yếu ớt nhất dễ bị tiêu diệt nhất.
Thích ứng bảo vệ ở giai đoạn sau phôi, thể hiện ở lối sinh sản có biến thái hay không biến thái và ở sự rút ngắn thời gian phát triển. Trong lối sống sinh trưởng có biến thái, các dạng ấu trùng khác hẳn dạng trưởng thành không những chỉ ở hình thái mà còn cả ở lối sống, nhất là thành phần thức ăn. Do đó sự phát triển qua giai đoạn ấu trùng có quan hệ tới số lượng quần thể sau này. Mặt khác, trứng chuyển sang giai đoạn ấu trùng nhanh hơn các giai đoạn gần trưởng thành (ở phát triển không biến thái) con non tự kiếm ăn sớm hơn, giảm bớt lượng noãn hoàng dự trữ giảm bớt kích thước trứng; trứng đẻ trong mỗi lứa sẽ nhiều hơn.
Theo qui luật (Thorson, 1950) đi từ xích đạo về cực và từ ven bờ ra biển khơi, hình thức sinh sản có biến thái của thủy sinh vật ít dần. Qui luạt này được giải thích bởi nguyên nhân: ở vùng xích đạo, sinh vật nổi phát triển đề quanh năm, rất thuận lợi cho lối sinh sản có ấu trùng ăn động vật nổi ở bất kỳ thời gian nào. Ở những vùng cực sinh vât nổi chỉ phát triển trong thời gian ngắn, do đó ấu trùng sinh ra rất ít trúng vào thời gian có nhiều thức ăn.
Read More
CHƯƠNG VI: SINH SẢN CÁ
Chuyên đề: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA BIỆN PHÁP SẢN XUẤT CÁ GIỐNG

Sinh sản là đặc trưng cơ bản của sinh vật (cá) nhằm tạo ra thế hệ mới duy trì và phát triển nòi giống, là hoạt động sống thể hiện cao nhất sự thích nghi với điều kiện môi trường sống.

I. ĐẶC ĐIỂM SINH SẢN CỦA CÁ

1.Phần lớn cá đẻ trứng, thụ tinh ngoài ở môi trường nước:
Bên cạnh hầu hết các loaì cá đẻ trứng thụ tinh ngoài thì co một số loài đẻ ra con, có loài có thể lưỡng tính, có loài noãn thai sinh nhưng những trường hợp này không phải là phổ biến.

2. Tuổi thành thục của cá.
Tuổi thành thục là tuổi nhỏ nhất trong đời(lần đầu tiên) cá có sản phẩm sinh dục thành thục. Nó mang theo đặc tính loài và đặc điểm điều kiện sống.
Thông thường, trong cùng một vùng địa lý, những loài cá có kích thước lớn thì có tuổi thành thục cao hơn cá có kích thước nhỏ. Cùng loài cá nhưng ở  những vĩ độ khác nhau thì tuổi thành thục khác nhau.


Stt

Loài cá
Vùng nuôi
ĐBSCL
Miền Bắc Việt Nam
1. 
Tra
24-36
-
2. 
Lóc
8
12
3. 
Trôi Ấn Độ
15
15
4. 
Chép
8
12
5. 
Mè trắng
18
24
6. 
Mè hoa
18
24
7. 
Trắm cỏ
18
24
8. 
Tai tượng
24

9. 
Sặc rằn
8

10.  
Rô đồng
8

11.  
Mè vinh, mè vàng
8

12.  
Trê vàng
8

13.  
Bống tượng
8


            
3. Sự sinh sản của cá thể hiện tính mùa vụ rất cao.
Sự biến đổi khí hậu mùa trong năm, kéo nhau những biến đổi điều kiện môi trường(thúc  ăn, lượng mưa nắng, mực nước,…). Những biến đổi đó đã tạo cơ sở hình thành các nhịp sinh học, các mùa sinh học. Trong môi trường nước, các mùa sinh học có thể là sự phát triển của các nhóm sinh vật, mùa vỗ béo, mùa di cư, mùa sinh sản…Trong đó,cá là động vật biến nhiệt, cũng tuân theo các quy luật đó. Trong tự nhiên cá sinh sản theo mùa, có mùa chính và mùa phụ.
Trải qua quá trình lịch sử hình thành, vận động và phát triển, các loài cá đã thích nghi cao đọ với điều kiện sống, thể hiện sự thích nghi cao nhất là quá trình sinh sản của cá. Nhưng biến đổi của điều kiên môi trường theo quy luật mùa đã hình thành nên tập tính sinh sản theo mùa của cá. Cá sẽ sinh sản vào những thời điểm, những mùa có điều kiện môi trường thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển của phôi và cá con. Yếu tố môi trường chi phối nhiều đến các giai đoạn này là thức ăn cho ấu trùng cá, nhiệt độ cho phát triển phôi. Do đặc tính đó mà ở nước ta, mùa vụ sinh sản của cá không đồng nhất ở hai miền Nam-Bắc. Ở miền bắc, cá tập trung sinh sản vào cuối mùa xuân, đầu hè(tháng 3,4). Ở miền Nam(Đồng bằng sông Cửu Long) cá tập trung sinh sản vào đầu mùa mưa(tháng 5). Tuy nhiên đặc tính khí hậu nhiệt đới của nước ta nên vào những tháng khác (mùa khác) vẫn thấy cá sinh sản( nhất là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long) nhưng đó không phải là mùa sinh sản chính, năng suấ và hiệu quả sinh sản không cao. Tiêu biểu trong các loài cá nuôi có thời gian sinh sản kéo dài trong năm là: cá chép, cá rô phi, cá lóc,…

4. Cá có sức sinh sản cao
Sức sinh sản của cá được tính bằng lượng trứng được đẻ ra của mộit cá thể(sức sinh sản tuyệt đối) hoặc một đơn vị khối lượng cơ thể(sức sinh sản tương đối). So với động vật có xương sống khác thì cá có sức sinh sản cao nhất. Do đặc tính đẻ trứng, thụ tinh ngoài ở môi trường nước, mức độ hao hục của phôi, ấu trùng cao nên sức sinh sản cao  của cá là biểu hiện sự thích ứng cao với điều kiện môi trường sống.
Sức sinh sản của cá phụ thuộc vào điều kiện sống(nhất là điều kiện sinh dưỡng và điều kiện nhiệt độ) mang theo đặc tính loài rõ rệt. Những loài cá đẻ trứng kích thước lớn có bảo vệ trứng thì có sức sinh sản thấp hơn. Những loài cá có trứng nhỏ lượng noãn hoàng ít thì có sức sinh sản cao. Những loài cá không bảo vệ trứng, không bảo vệ con thì có sức sinh sản cao hơn những loài có bảo vệ trứng, chăm sóc con.

II. CÁC THỜI KÌ PHÁT TRIỂN CỦA TẾ BÀO SINH DỤC CÁI
Quá trình phát dục thành thục của tế bảotứng cá được chia làm 3 thời kỳ lớn: Thời kì sinh sản, thời kì sinh trưởng và thời kì thành thục(V.A.Mayen).

1.Thời kỳ tăng sinh (sinh sản)
Noãn nguyên bào phát dục từ tế bào sinh dục nguyên thuỷ. Thời kì này, noãn nguyên bào phát triển mạnh theo phương thức phân chia, số lượng tế bào sinh dục tăng lên gấp nhiều lần. Số lần phân chia không thay đổi đối với từng loài. Ở cá, noãn nguyên bào hình tròn, nhân to, chỉ có một lớp tế bào chất mỏng và trong suốt, đường kính tế bào trứng từ 7,62-13,79m

2. Thời kì sinh trưỏng.
Theo quan điểm  của V.A.Mayen thời kì sinh trưởng chia làm ba thời kì nhỏ: Thời kì phôi tơ, thời kì sinh trưởng nhỏ, thời kì sinh trưởng lớn.
 Theo nghiên cứu cá mè trắng Trung Quốc(Hypoththalmichthys molitrix) của khoa sinh vật Trường Đại học Vũ hán và Viện khoa học Tryng Quốc, thời kì này còn gọi là thời kì trao đổi nhiễm sắc thể hoặc biến đổi nhân, tế bào ngừng phân chia.

2.1. Thời kì phôi tơ
Thời kỳ này còn chia làm các thời kì nhỏ là: Thời kì tế tơ, thời kì liên kết, thời kì hậu tơ và thời kì song tơ.
 Đây là thời kỳ phát triển đầu tiên của trứng, trong thời kì này, nhiễm sắc thể phát sinh thành một chuỗi biến đổi có quy luật.
 -Thời kỳ tế tơ: Nhiễm sắc thể tương đối nhỏ.
 - Thời kỳ liên kết: Nhiễm sắc thể hợp lại thành khối.
- Thời kỳ hậu tơ: Nhiễm sắc thể tương đối lớn và kéo dài.
 - Thời kỳ song tơ: nhiễm sắc thể cắt ra thành từng đôi một có quy luật.

2.2. Thời kì sinh trưởng nhỏ
Thời kỳ này chia làm hai thời kỳ nhỏ là: Thời kỳ thơ ấu và thời kỳ một lớp tế bào follicle.
Thời kỳ thơ ấu: Đường kính của tế bào trứng khoảng 24-28wwwwm, tế bào chất so với  thời kỳ trước có tăng lên, nhiễm sắc thể trong hạch tế bào dần dần tiêu tan, cờt 2-8 hạch nhân to, nhỏ không điều nhau. Đặc điểm của buồng trứng lúc này ở giai đoạn I, nhân tế bào lớ, chiếm phần lớn thể tích tế bào trứng, xung quanh quách tế bào có những hạt nhỏ, tế bào chất ở dạng bột, màng trứng rất mỏng.

Thời kì một lớp tế bào Follicle: Đường kính tế bào trứng 189-240 m,.Đặc điểm chủ yếu thời kỳ này  là bao quanh tế bào trứng là một lớp tế bào Follicle. Nhiễm sắc thể trong hạch nhân đã tiêu tan hoàng toàn. Có 6-13 hạch nhân nằm rải rác, tế bào chất từ kết cấu hạt nhân nhỏ biến thàng dạng màng lưới. Buồng trứng lúc này ở dạng II. Nếu điều kiện sinh  thái không thuận lợi và không thích hợp cho tế bào trứng phát triển, trứng của các loài cá mè, cá trắm cỏ trong ao nuôi dừng lại ở giai đoạn này và không tiếp tục phát triển.

2.3. Thời kỳ sinh trưởng lớn
Còn lại là thời kì dinh dưỡng, là thời kì tích luỹ protein  và lipid trong trứng xuất hiện các hạt noãn  hoàng nhỏ.
Thời kì bắt đầu tích luỹ: Noãn hoàng bắt đầu tích luỹ xung quang rìa ngoài của noãn bào. Màng trứng dày lên và xuất hiện vân phóng xạ lên gọi là vành phóng xạ.
 Màng follicle chia thành 2 lớp tế bào. Quá trình tích luỹ noãn hoàng là quá trình tích luy từ rìa ngoài phát triển vào trong. Trong dịch bào có chất dịch bào phức tạp đó là phần chủ yếu sau này  hình thành xoang bao trứng. Hạch tế bào ở chính giữa có hình dạng không xác định(hình bầu dục hoặc hình tròn). Hạch nhân tăng lên trên 20 cái, đường kính tế bào trứng lớn lên tới 500wwwwm, buồng trứng lúc này ở đầu giai đoạn

3. Thời kỳ thành thục(chín)
Đây là thời kì cực hoá noãn bào, tế bào trứng từ dạng cố định chuyển sang dạng lỏng lẻo. Quá trình này diễn biến nhanh có thể 8-20 giờ tuỳ thuộc vào từng loài cá và điều kiện môi trường sống của cá. Noãn hoàng lien kết thành một khối, nhân tế bào chuyển về cực động vật, hạch nhân chuyển từ ngoài vào trong nhân và hoà tan trong đó. Lúc này trứng trong suốt và bắt đầu phân chia giame nhiễm (nhiễm sắc thể từ 2n còn  lại 1n). Lần phân chia này một noãn bào sơ cấp sẽ phân thành một noãn bào thứ cấp,  nguyên sinh chất rất ít gọi là cực bầu 1, không có tác dụng gì đối với quá trình tạo trứng.
Lần phân chia thứ hai theo cách nguyên nhiễm. Noãn bào thứ cấp sẽ phân chia để cho một trứng chính lớn và một tế bào nhỏ gọi là cực bầu 2. Lúc này cực bầu một cũng phân chia thành hai cực bầu. Tổng số có ba cực bầu, cả ba cực bầu này điều không có tác dụng trong sinh sản và tự tiêu mất. Lần phân chia này cho một trứng chính hoàng toàn. Cả hai lần phân cắt giảm nhiễm và giảm phân có thể ở bên trong tuyến sinh dục và cũng có thể ở bên ngoài. Với các loài cá nuôi khi trứng đẻ ra ngoài mới phân chia lần thứ hai. Giữa hai lần phân chia, lần1 và lần 2 tốc độ phát triển của trứng có hiện tượng chậm lại để đợi thụ tinh.
Quá trình thành thục của tế bào trứng: nang trứng follicle tiết ra Progesteron kết hợp với hormone sinh dục có lien quan tạo thành một lớp chất làm rách màng Follicle. Nhờ vậy trứng thành thục thoát ra khỏi màng follicle-trứng tách ra trong buồng trứng ở dạng lỏng lẻo, đây còn gọi là quá trình rụng trứng.Thời gian trứng thành thục hoàn toàn chờ được thụ tinh, tích hợp nhất từ 1-2 giờ. Ngoài khoảng thời gian này sẽ không còn khả năng thụ tinh và phụ tinh quá trậm phôi cá trát triển không bình thường. Khi rụng trứng thuộc giai đoạn V.

III. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA BUỒNG TRỨNG

Noãn sào (buồng trứng) của cá thường là hai nhánh, có dạng hình túi, do mô lên kết và cơ trên tạo thành. Vách buồng trứng có các vách ngang là nơi phát sinh tế bào trứng(gọi là tấm sinh trứng). Noãn sào có các dây thần kinh và mạch máu phân bố. Nãon sào hợp có ống dẫn trứng, thong ra ngoaig qua lỗ sinh dục. kicelevit chia buồng trứng thành 6 giai đoạn phát triển.

1.Giai đoạn I
Xuất hiện ở những cá thể có tuyến sinh dục  chưa thành thục lần nào. Noãn sào dạng sợi màu trứng nằm sát sống lưng và sau bong hơi. Ở giai đoạn này không phân biệt được  cá đực và cá cái bằng mắt thưòng.
Trên lát cắt mô học của của buồng trứng ở giai đoạn này, trứng sắp sếp không có quy tắc, đường kính từ 10-80m(tuỳ từng loài cá). Thể tích nhân tế bào lớn, chiếm phần lớn tế bào, xắp xỉ 1/2  thể tích của tế bào, mô lien kết mà mạch máu không phát triển.

2. Giai đoạn II
Noãn sào dẹp, bằng, dẹp màu xanh sam hoặc trong suốt, mạch máu có màu hồng. Với cá lần đầu ở giai đoạn II thì mạch máu và mô lien kết không phát triển nhưng có thấy mạch máu lớn ở đầu buồng trứng, mát thường không thể nhìn thấy tế bào trứng riêng biệt, dùng kính lúp hoặc kính hiển vi mới nhìn thấy được, đường kính tế bào trứng từ 90-200m. Đối với các cá thể đã sinh sản một lần trở lển trong buồng trứng có lác đác những trứng ở phase III-IV, mô lien kết và mạch máu lúc này rất phát triển. Trong ao nuôi nếu không có điều kiện môi trường thích hợp thì tuyến sinh dục có thể dừng lại ở giai đoạn này thời gian dài.

3. Giai đoạn III
Buồng trứng tăng thể tích, màu trắng hoặc màu xanh sẫm, tế bào trứng có thể nhìn thấy bằng mát thường nhưng không thể tách rời từng trứng riêng biệt. Ở cá mè trắng, đường kích đạt tới 250-500m, mạch máu phát triển, tế bào trứng nằm hai bên tấm sinh trứng và bắt đầu tích luỹ noãn hoàng, buồng trứng có thể dừng lại ở giai đoạn này 1-2 tháng tuỳ điều kiện nhiệt độ.

4. Giai đoạn IV
Mô liên kết và mạch máu rất phát triển, buồng trứng chiếm 2/3 xoang bụng, hệ số thành  thục cao. Buồng trứng có màu vàng nhạt hau xanh tối, buồng trứng có tính đàn hôig, trong buồng trứng chứa đầy trứng nên rất dễ tách rời từng trứng.
Giai đoạn này tuỳ theo cá đẻ một hoặc nhiều lần trong năm mà có các đặc điểm khác nhau.
Ở cá đẻ một lần trong năm, những trứng thành thục đã tích luỹ đầy đủ noãn hoàng và có cùng một dạng hình, ở giai đoạn IV. Ở cá đẻ nhiều lần trong năm; ngoìa những trứng đã chứa đầy noãn hoàng còn những trứng chưa tích luỹ noãn hoàng đầy đủ  và ở giai đoạn III hoặc quá độ từ giai đoạn thứ III đến giai đoạn thứ IV.
Căn cứ vào mức độ tích luỹ  noãn hoàng nhiều hay ít mà người ta phân  chia làm các giai đoạn phụ sau: giai đoạn IVa, giai đoạn IVb, giai đoạnIVc. Trong sinh sản nhân tạo, Còn ở giai đoạn IVa chưa có thể kích thích cho cá đẻ trứng.

5. Giai đoạn V
Trứng đã rụng trong buồng trứng, mạch máu xung huyết(văn phòng), buồng trứng rất mềm, vuốt nhẹ bụng cá, trứng có thể chảy ra thành dòng. Cá đẻ một lần trong năm, ngoài trứng đã rụng, trong buồng trứng còn có những tế bào trứng ở thời kì sinh trưởng nhỏ và sinh trưởng lớn  giành cho những đợt sinh sản sau.

6. Giai đoạn VI
Ở giai đoạn IV, buồng trứng sau khi sinh sản có hai loại: Ở buồng trứng của cá đẻ một lần trong năm thì teo lại, màng buồng trứng dày lên, mạch máu xung huyết có màu đỏ tím, trong buồng trứng còn sót lại tế bàp trứng ở giai đoạn V và chúng sẽ bị hấp thụ nhanh chống. Buồng trứng có nhiều màng follicle  rỗng và có nhiều thẻ vàng. Sauk hi sinh sản, buồng trứng trở lại giai đoạn II (đối với cá đẻ một lần trong năm) giai đoạn III đói với cá đẻ nhiều lần trong năm.

IV. SỰ THOÁI HOÁ VÀ HẤP THU CỦA BUỒNG TRỨNG CÁ NUÔI
 Hiện tượng thoái hoá các noãn bào thời kì sinh trưởng sinh dưỡng và sự hấp thụ các noãn bào xảy ra như thế nào để tạo điều kiện cho chu kỳ mới phát triển là một hiện tượng cần được chú ý. Có hại loại hấp thụ đó xảy ra đối với cá chưa đẻ nhưmg sẽ thoái hoá của cá sau khi đẻ trứng.

1.Sự thoái hoá trước khi đẻ trứng(thành thục không đẻ)
Các noãn bào đang hoặc đã kết thúc thời kì tích luỹ nãon hoàng, nhưng do không đr đieeuf kiện để rụn trứng hoặc điều kiện khắc nghiệt của môi trường  đã ngừng sinh tưởng và bước vào thoái hoá. Điều kiện khắc nghiệt thường xảy ra  phổ biến nhất  là nhiệt đọ cao. Trong sinh sản nhân tạo, khi nhiệt đọ nước trong ao lên 33-340 mà cá thành thục, nếu chưa được cho đẻ, mà phải kéo dài 10 ngày thì buồng trướng cá có hiện tượng thoái hoá.
Buồng trứng cá thoái hoá có các dấu hiệu như: xuất hiện các trứng màu nâu, trong, trắng đục, rải rác có các hạt vàng rắn chắc, đó là các thẻ vàng trước khi rụng trứng. Dấu hiệu đầu tiên của quá trình thoái hoá này là: sự gia tăng thượng bì foolicle, đồng thời có quá trình phân chia để tăng số lượng tế bào foolicle;  đoi lúc thượng bì foolicle có hiện tuợng  tách rời khỏi màng tế bào trứng. Màng phóng xạ bị hư hỏng, các vạch phóng xạ không rõ ràng, sự huỷ hại của nhân , nhân trứng trở nên tối hơn, màng không rỗ ràng, tiểu hạch biến mất, chất nhân hoà lẫn vào tế bào chất. Trong tế bào chất,  các không bào còn rất ít và đông đặc lại. Ở khu vực gần bề mạt của noãn bào các hạch noãn hoàng phân bố lộn xộn và không có sự cô đặc và hoàng toàn  huỷ hoại  của màng tế bào, màng tế bào trương lên và không rõ. Tế bào foolicle tăng nhanh  sự xâm nhập vào trong trứng, kích thước trứng nhỏ dần.

Trong một số trường hợp, buồng trứng xuất hiện thể vàng trước khi rụng trứng. Các cụm tế bào thượng bì foolicle xuất hiện các sắc tố Lipofuchisin vàng gạch đậm, sau khi têu hết noãn hoàng chúng sắp xếp không có quy tắc, có thể tính được số lượng của chúng nhưng  rõ ràng là ít hơn nhiều so với số lượng tế bào  già đang thoái hoá. Đôi lúc cũng xuất hiện các cụm tế bào chất sắp xếp lộn xộn trong tế bào, nhân tự tan và dần dần tiêu hoá. Đôi lúc cũng xuất hiện các cụm tế bào hoàng thể khi các thành phần của tế bào trứng huỷ hoại.
Với các noãn bào ở pha không bào hoá (giai đoạn tích luỹ noãn hoàng đầy đủ) đã bắt gặp sự thoái hoá bằng hiện tượng biến đổi của màng tế bào. Tế bào foolicle xâm nhập vào màng trứng, không bào và tế bào chất sắp xếp lộn xộn trong tế bào, nhân tự tan và dần dần tiêu biến.

2. Sự thoái hoá sau khi đẻ trứng
Các bọc foolicle rống được thoái hoá bị hấp thu dần và cuối cùng hoàn toàn biến mất. Quá trình thoái hoá  học bọc foolicle xảy ra tương đối nhanh. Sauk hi tiêm hormne  cho cá ở giai đoạn IV  những trứng ra khỏi màng foolicle hoặc còn nằm trong bao noãn sẽ có hai hiện tượng.
Những noãn bào đã thoái khỏi bao noãn nhưng vẫn lưu thong trong noãn sào sẽ bị rữa nát và thoát ra ngoaì trong 5-6 ngày sau. Nhờ sự tiêu trứng như vậy, Các noãn bào gí một phần lớn nhanh chống bị tiêu đi.
Nững noãn bào đã bị phản ứng với kích dục tố  nhưng chưa thoát ra bao noãn đã dần dần bị thoái hoá  hấp thụ như những noãn bào  bị thoái hoá trước khi đẻ trứng. Trong trường hợp này đôi khi thấy màng foolicle  thoạt đầu bị bong ra, noãn hoàng chảy ra ngoài và dấu vết của màng phóng xạ còn lại rất lâu, cho đến khi thành phần khác của noãn bào hầu như bị biến mất. Sự hấp thụ này tuỳ điều kiện sinh thái mà nhanh hay chậm.

V. KHẢ NĂNG THỤ TINH CỦA TINH TRÙNG VÀ TRỨNG

1. Khả năng thụ tinh của tinh trùng
a. Mật đọ và khả năng thụ tinh của tinh trùng
Tinh trùng của các loài cá hầu như có kích thước tương đương nhau,( dao động trong khoảng 30-35m). Do kích thước rất nhỏ lại có mật độ cao nên 1ml tinh trùng có thể thụ tinh được. Khả năng thụ tinh của tinh trùng phụ thuộc vào  nhều yếu tố như nhiệt độ, áp suất thẩm thấu của môi trường nước…

b. Ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường đến tuổi thọ của tinh trùng
* Nhiệt độ.
Khi nhiệt độ cao tuổi thọ tinh trùng giảm và ngược lại.
Sau khi tinh trùng tiết ra ngoài môi trường thì trở nên hoạt hoá, nguyên nhân chính là do sự chênh lệch về áp suất thẩm thấu giữa môi trường nước với áp suất  thẩm thấu của tinh trùng và sự tiếp xúc của tinh trùng với oxy.Do vậy tuổi thọ của tinh trùng phụ thuộc rất nhiều vào nồng độ muối của môi trường.
Tinh trùng bảo quản trong dung dịch tinh sẽ có tuổi thọ cao nhất. Tuy nhiên trong thực tế sản xuất, người ta thường dùng dung dịch thụ tinh (dung dịch thụ tinh có tác dụng duy trì sinh lý và duy trì tuổi thọ của tinh trùng sau khi chúng rời khỏi cơ thể cá) vì dung dịch này dễ pha chế và chỉ sử dụng trong một lần đẻ. Nhưng tuỳ loại mà nồng độ và thành phần của dung dịch thụ tinh cũng khác nhau. Vì vậy trước khi sử dụng phải thử lại sự vận động của tinh trùng để vận động của tinh trùng để xác định thành phần tỷ lệ các chất trong dung dịch thụ tinh cho thích hợp. Nếu thời gian vận động mạnh của tinh trùng kéo dài 1.0-1,5 phút thì coi là dung dịch thụ tinh tối ưu. Khi tiếp xúc với nước cất, màng tế bào tinh trùng bị phá vỡ ( vì áp suất thẩm thấu của nước cất là 0) và tinh trùng chết rất nhanh.

 Khả năng thụ tinh và tuổi thọ của tinh trùng cao nhất khi tiếp xúc với môi trường nước có nồng độ tương đói với nồng độ muối  của nước muối sinh lý(0,7-0,90/0 ). Mức độ đậm đặc của tinh dịch cũng lien quan đến tuổi thọ và khả năng thụ tinh của tinh trùng. Tinh dịch đậm đặc có màu trắng sữa  thì chất lượng timnh trùng tốt(khả năng thụ tinh cao) và ngược lại là màu trắng ngà.Dựa vào khả năng vận động và khả năng thụ tinh của tinh trùng mà ngưòi ta chia ra các cấp vận động sau:

 Cấp 1: Vận động rất nhanh, không tìm thấy đầu, khả năng thụ tinh cao nhất(>800/0) .
 Cấp2. Vận động nhanh, có thể hình thấy đầu, khả năng thụ tinh giảm 500/0
Cấp3. Vận động lắc lư, chuyển động chậm, khả năng thụ tinh còn 20-250/0
 Cấp 4. Ngừng vận động, không còn khả năng thụ tinh.

2. Khả năng thụ tinh của trứng
 Điều kiện cần của trứng cần được thụ tinh là trứng cần phải tách ra khỏi lớp Foolicle(nang trứng) và tiếp xúc với tinh trùng trong nước(hoặc dung dịch có áp suất thẩm thấu nhỏ hơn áp suất thẩm thấu của cá). Sauk hi rụng hơn một khoảng thời gian nhất định, trứng còn khả năng thụ tinh, qua thời gian đó khả năng thụ tinh của trứng mất đi. Đây là cơ sở có ý nghĩa quan trọng trong sinh sản trong nhân tạo cá(nhất là thực hiện thụ tinh nhân tạo, xác định thời điểm cho trứng và tinh trùng tiếp xúc).
Nhìn chung sau khi trứng rụng và nằm trong xoang buồng trứng khi khả năng thụ tinh của trứng kéo dài, tốt nhất. Khoảng 25-30 phút sau khi rụng. Sau đó giảm dần và mất hoàn toàn  khả năng thụ tinh sau khi rụng khoảng 120 phút.
Sauk hi trứng thoát khỏi cơ thể cá thì tuổi thọ của cá phụ thuộc vào nhiều yếu tố, quan trọng nhất lag đọ nặm và nhiệt độ. Nếu quản trứng trong dung dịch nước muối sinh lý(7-90 /00) oqr nhiệt độ 24-250C, thì tuổi thọ của trứng kéo daig khoảng 60 giây. Màng tế bào trứng sẽ bị phá vỡ rất nhanh và tuổi thọ của trứng rất gắn khi tiếp xúc với nước cất do chênh lệch áp suất thẩm thấu của trứng với nước cất.
Trứng tiếp xúc với nước ao thì khả năng thụ tinh của trứng giảm nhưng dài hơn trường hợp tiếp xúc với nước cất. Nguyên nhân là do sự thayu dổi nồng độ muối giữa tế bào trứng với môi trường; trứng hình thành màng trong nước rất nhanh và noãn khổng đóng lại rất nhanh (khoảng 15-20 giây).

VI. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TUYẾN SINH DỤC ĐỰC

1. Cấu tạo của tinh sào
Tinh sào cá đực là hai dải nhỏ nằm sát hai bên sương sống. Bên ngoài được bao phủ một lớp màng mỏng. Có thể coi toàn bộ tinh sào là hệ thống ống đi từ bề mặt ngoài vsof trong của tinh  sào và đỗ vào ống dẫn chung. Thành ống dẫn tinh và màng tinh sào là mô lien kết và mạch máu. Trong long ống dẫn tinh không có mạch máu mà chỉ có các tế bào sinh dục ở cùng một giai đoạn và các bào nang làm nhiệm vụ nuôi các tế bào sinh dục.
Về mặt hình thái bên ngoài có thể thấy tinh sào có hình ống hơi tròn và  dài như tinh sào cá trắm cỏ, cá trôi hoặc hình dẹp lá như tinh sào cá chép hoặc có  dạng đặc biệt hơn phân nhiều nhánh, nhiều thùy như cá tra, cá trê, nhưng cũng có loại tinh sào có dạng hình phóng xạ như cá vược.

2. Sự phát triển của tế bào sinh dục đực
Quá trình phát triển của tinh sào cũng tương tự như quá trình phát triển của noãn sào và có thể chia ra các giai đoạn sau:
2.1.Thời kỵ sinh sản
Tế bào sinh dục đực được tạo thành là do sự phân chia nhiều lần của tinh nguyên bào, Kết quả là số lượng tế bào tam3ng tleen nhưng kích thước giảm đi rất nhiều và từ một tinh nguyên bào ban đầu sẽ hình thành một nhóm tinh bào có cùng một giai đoạn phát triển nằm chung trong một bào nang.

2.2. Thời kỳ sinh trưởng
Các tinh bào ngừng phân chia và lớn lên tạo thành tinh bào cấp I. Bên trong nhân xảy ra các quá trình biến đổi phwc tạp cho quá trình giảm phân.

2.3. Thời kỳ chin
Sau khi kết thúc quá trình giảm phân. Các tế bào cấp I phân chia cho tinh bào cấp II và các tinh bào cấp II tiếp tục phân chia cho 4 tinh tử.

2. 4. Thời kỳ biến thái
Các tinh tử biến thái thành tinh trùng. Khi chin muồi các bào nang vỡ ra và tinh trùng được giải phóng vào trong ống dẫn tinh. Ở một số loài cá, tinh trùng dễ dàng thoát ra ngoài khi có tác động mạnh, nhưng cũng có một số loài cá tinh trùng không thể vuốt ra được do cấu tạo đặc biệt của tinh sào như tinh sào cá trê.

3. Cấu tạo của tinh trùng
Tinh trùng cá có thể khác nhau về mặt hình thái, nhưng chúng có một số đặc điểm chung có lên quan tới chức năng sinh lý theo từng phần của tinh trùng. Dựa vào chức năng sinh lý và hình thái bên ngoài có thể chia ra 4 phần:
- Phần đầu của tinh trùng gồm có thể đỉnh và nhân. Thể đỉnh có nguồn gốc từ bộ máy Golgi, nó là một khối nguyên sinh chất đặc nằm ở trên nhân, từ đây chúng tạo thành một màng kép kéo xuống phía dưới tạo thành mũ của tinh trùng. Thể đỉnh đóng vai trò quan trọng sự xâm nhập vào trứng của tinh trùng. Nhân của tinh trùng chứa chất liệu di truyền ở dạng nhiễm sắc thể cô đặc là DNA. Cổ của tinh trùng có trung tử đầu và trung tử đuôi. Từ trung tử đuôi phát sinh ra sợi trục là cơ quan chủ yếu của đuôi tinh trùng.
- Thân của tinh trùng chứa ti thể, đó là các bào quan chwasc các men oxy hóa và các men oxyphosphoryl hóa.
- Đuôi của tinh trùng là cơ quan vận động. Nó được bao quanh bởi một lớp tế bào chất và một lớp màng tế bào. Phía ngoài sợi trục có cấu tạo tương tự màng lượn song có tác dụng hỗ trợ cho việc vận động của tinh trùng. Sự vận động của tinh trùng được thực hiện bởi hoạt động tổng hợp của các động tác co duỗi, đập đuôi và lượn sóng.

4. Sự phân chia giai đoạn thành thục của tinh sào
1. Phase I
Tuyến sinh dục chưa phát triển, chưa phân biệt được đực cái. Nó chỉ là hai sợi chỉ nhỏ nằm sát hai bên xương sống. Trên lát cắt thấy nguyên tinh bào nằm trong các bào nang.

2. Phase II
Tinh sào có dạng hai dải mỏng có màu hồng nhạt (có thể từ Phase II phát triển lên Phase VI  sau khi thoái hóa xong trở về). Về mặt tổ chức học thấy rõ các túi sinh tinh, các tế bào sinh dục đực là các tinh nguyên bào đang ở thời kỳ sinh trưởng và sinh sản.

3. Phase III
Tinh sào có màu trắng phớt hồng, cuối giai đoạn này có màu trắng ngà. Trong các ống dẫn tinh chứa đầy các bào nang với các tế bào sinh dục ở cùng một giai đoạn phát triển. Khoảng cách giữa các ống dẫn tinh rất hẹp.
Về mặt tổ chức học, trong các ống dẫn tinh có nhiều túi nhỏ và quá trình tạo tinh xảy ra mạnh mẽ. Trong các tinh sào có tinh nguyên bào, tinh bào cấp I, tinh bào cấp II, tinh tử và tinh trùng.

4. Phase IV
Tinh sào có màu trắng sữa, quá trình tạo tinh cơ bản kết thúc. Trong các ống dẫn tinh chứa đầy tinh trùng đã chin muồi đã thoát ra khỏi bào nang và các tinh nguyên bào là nguồn dự trữ cho các chu kỳ sau. Ở giai đoạn này tinh trùng dễ dnagf thoát ra ngoài khi có tác động mạnh ngay cả khi cá quẫy mạnh.

5. Phase V
Tinh sào ở trạng thái sinh sản. Tinh trùng chứa đầy trong các ống dẫn tinh. Ngoài ra, trong các ống  dẫn tinh còn có một lượng đáng kể các tế bào sinh dục ở các phase trước đó.

6. Phase VI
Là giai đoạn tinh sào đã sinh sản xong. Bề mặt tinh sào có màu đfỏ hồng nhạt, mềm nhão. Trong ống dẫn tinh ngoài tinh trùng đã chin, các bào nangn còn có tế bào sinh dục ở các giai đoạn phát triển khác nhau.

5. Khả năng thụ tinh của tinh trùng
Mật độ và khả năng thụ tinh của tinh trùng: Tinh trùng của hầu hết các loài cá có kích thước tương đương nhau, dao động trong khoảng 30 – 35um. Do kích thước rất nhỏ nên 1ml3 tinh trùng có thể thụ tinh được 100.000 – 200.000 trứng. Tuy nhiên khả năng thụ tinh của tinh trùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhiệt độ, áp suất thẩm thấu cảu môi trường nước…

6. Ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường đến tuổi thọ của tinh trùng
* Nhiệt độ
Khi nhiệt độ cao, tuổi thọ tinh trùng giảm và ngược lại.
Ví dụ: Tuổi thọ của tinh trùng cá chép ở nhiệt độ khác nhau.
  • 0 – 2oC tinh trùng sống được 6 – 10 ngày;
  • 2 -6 oC tinh trùng sống được 2 ngày
  • 21 – 25 oC tinh trùng sống được 1 ngày
  • 26 – 29 oC tinh trùng sống được 4 -6 giờ

*Nồng độ muối
Sau khi tinh trùng tiết ra ngoài môi trường thì trở nên hoạt hóa, nguyên nhân chính là do sự chênh lệch về áp suất thẩm thấu giữa môi trường nước với áp suất thẩm thấu của tinh trùng. Do vậy tuổi thọ của tinh trùng phụ thuộc rất nhiều vào nồng độ muối của môi trường.
Tinh trùng bảo quản trong dung dịch bảo bản tinh sẽ có tuổi thọ cao nhất. Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất, người ta thường dung dung dịch thụ tinh vgif dung dịch này dễ pha chế và chỉ sử dụng trong một lần đẻ. Nhưng tùy loài mà nồng độ và thành phần của dung dịch thụ tinh cũng khác nhau.
Khả năng thụ tinh của tinh trùng cao nhất cũng như tuổi thọ của chúng dài nhất khi tiếp xúc với môi trường nước có nồng độ muối tương đương với nồng độ muối của tế bào (0,7-0,9%o) Ngay cả mức độ đậm đặc của tinh dịch cũng liên quan đến tuổi thọ và khả năng thụ tinh của tinh trùng. Tinh dịch đậm đặc có màu trắng sữa thì khả năng thụ tinh càng cao và ngược lại.
Dựa vào khả năng vận động và khả năng thụ tinh của tinh trùng mà người ta chia ra các cấp vận động như sau:
Cấp 1: Vận động rất nhanh, không nhìn thấy đầu, khả năng thụ tinh cao nhất (>80%).
Cấp 2:Vận động nhanh, có thể nhìn thấy đầu, khả năng thụ tinh giảm 50%.
Cấp 3: Vận động lắc lư, chuyển động chậm, khả năng thụ tinh còn 20-25%
Cấp 4: Ngừng vận động, không còn khả năng thụ tinh.

Posted by Van Thao - MEKONGFISH
Read More

Vì ngày ǝm đến là ngày rơi mùa hè. Bầu trời lấp lánh những cánh hoa như sao tỏa bay.
Dường như là vẫn thế ǝm không trở lại, mãi mãi là như thế ɐnh không trẻ lại. Dòng thời gian trôi như ánh sao băng...